Giáo trình

Hệ thống: HỌC LIỆU ĐIỆN TỬ
Khoá học: GIÁM ĐỐC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP - TRÌNH ĐỘ SƠ CẤP
Book: Giáo trình
Được in bởi: Người dùng khách
Ngày: Thứ bảy, 28 Tháng chín 2024, 8:27 PM

1. Những vấn đề cơ bản của vấn đề cơ bản của marketing liên quan khách hàng, HTX và cộng đồng


1.2 Các quan điểm marketing


(1) Quan điểm tập trung vào sản xuất:

Quan điểm tập trung vào sản xuất cho rằng người tiêu dùng sẽ ưa thích những sản phẩm giá rẻ, được bán rộng rãi. Do vậy, HTX hay doanh nghiệp cần phải mở rộng quy mô sản xuất và mở rộng phạm vi phân phối.

Hay nói cách khác, HTX có định hướng này chủ yếu quan tâm đến việc làm sao sản xuất ra khối lượng sản phẩm càng nhiều càng tốt. HTX có thể nhắm đến việc tối đa hóa lợi nhuận bởi việc khai thác tính kinh tế theo quy mô.

Ví dụ: HTX tập trung sản xuất lúa với mục tiêu đạt sản lượng cao nhất mà ít quan tâm đến các yếu tố về thị hiếu của người tiêu dùng gạo.

* Điều kiện áp dụng


(2) Quan điểm tập trung vào sản phẩm:

Quan điểm tập trung vào sản phẩm cho rằng người tiêu dùng ưa thích những sản phẩm có chất lượng cao nhất, có tính năng sử dụng tốt nhất. Từ đó, HTX/doanh nghiệp cần phải nỗ lực hoàn thiện sản phẩm không ngừng.

Tuy nhiên, nếu không cẩn trọng, HTX sẽ rơi vào tình trạng “cận thị marketing”, đó là khi HTX luôn xem sản phẩm hiện tại của mình là tối ưu mà không nắm bắt những xu hướng mới trên thị trường.

Ví dụ: Nông sản hữu cơ ngày càng được quan tâm, việc ăn cho no không còn quan trọng như thời trước; các sản phẩm biến đổi gen ngày càng bị thị trường nghi ngờ vì ảnh hưởng dài lâu của nó đến sức khỏe; rau an toàn và rau sạch dần dần sẽ thay thế rau không có nguồn gốc và thương hiệu; thức ăn nhanh đang thay thế cho việc chế biến; gạo không chỉ cho ra cơm mà còn có thể được chế biến thành rất nhiều thứ khác như bánh canh, bánh tráng, phở, bún… và ngày nay còn có gạo được bổ sung sắt và vitamin; muối thì có nhiều màu, nhiều mùi và nhiều vị như muối xanh, muối đỏ, muối tỏi, muối tôm…).

* Điều kiện áp dụng


(3) Quan điểm tập trung vào bán hàng:

Quan điểm này cho rằng mối quan tâm chính của HTX/doanh nghiệp là phải làm sao bán được các sản phẩm đang có sẵn của mình nhiều hơn nữa. Do đó, họ tập trung nỗ lực vào kỹ năng bán hàng, định giá, phân phối và khuyến mãi.

Nếu HTX theo đuổi quan điểm này thì sẽ ít quan tâm đến nhu cầu và ước muốn của khách hàng và ít nỗ lực tạo ra những vật phẩm và dịch vụ thích hợp với nhu cầu của họ. Họ chỉ cố gắng bán được hàng hóa càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, nếu không có sự kiểm soát thích hợp thì hoạt động này sẽ làm quan hệ giữa đơn vị và khách hàng xấu đi.


(4) Quan điểm marketing:

Triết lý này cho rng vic hoàn thành các mc tiêu ca t chc phc thuc vào s hiu biết nhu cu, mong mun ca th trường mc tiêu và cung ng s hài lòng theo mong mun ca khách hàng tt hơn đối th cnh tranh.

Quan đim marketing ch yếu tp trung vào khách hàng và giá tr dành cho khách hàng nhm đạt được li nhun và doanh s. Công vic ca marketing không ch là tìm đúng khách hàng cho sn phm ca mình mà còn cung ng đúng sn phm cho khách hàng.


(5) Quan điểm marketing hướng vào đạo đức xã hội:

Đây là quan điểm xuất hiện gần đây nhất. Quan điểm này đòi hỏi phải kết hợp hài hoà giữa 3 lợi ích như: lợi ích khách hàng, lợi ích HTX và lợi ích xã hội. Hay nói cách khác, HTX phải biết kết hợp 3 lợi ích của thành viên – HTX – cộng đồng. Sản phẩm của các HTX phải giúp cho cộng đồng cải thiện chất lượng cuộc sống, chứ không chỉ đơn thuần là đời sống vật chất.


Ví dụ: HTX Phú Thạnh (huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) tổ chức dịch vụ phun thuốc trừ sâu và bón phân lúa cho nông dân trong HTX. Giá dịch vụ thấp hơn 5.000đ/bình phun thuốc; HTX tổ chức cho 30 lao động nghèo không đất trong HTX làm dịch vụ; sau khi phun thuốc xong, tổ dịch vụ thu gom vỏ bao bì và bỏ rác đúng nơi quy định. Với dịch vụ này, HTX Phú Thạnh giúp giảm giá thành cho nông dân (khách hàng/thành viên của HTX), tạo việc làm cho 30 lao động (lợi ích cộng đồng), tạo thu nhập cho HTX và bảo vệ môi trường.

Trên thực tế, có nhiều HTX thoả mãn được hai lợi ích đầu nhưng đã lãng quên lợi ích xã hội như: gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên, gây bệnh tật cho con người,.... Kết quả là bị xã hội lên án, tẩy chay. Các hãng thuốc lá ngày càng bị xã hội lên án và Chính phủ nhiều nước đã cấm mọi hình thức quảng cáo thuốc lá.


1.3. Marketing truyền thống và marketing hiện đại

Marketing truyền thống: Người nông dân sản xuất ra sản phẩm xong sẽ đi tìm thị trường tiêu thụ, hay nói cách khác, marketing truyền thống là sản xuất ra nông sản nông dân sẵn có chứ chưa sản xuất nông sản mà thị trường cần.

Ví dụ: Nông dân Việt Nam sản xuất quá nhiều giống lúa IR50404 (là loại lúa ngắn ngày, năng suất cao, kháng sâu bệnh, dễ chăm sóc, nhưng cơm khô, không mùi thơm, để cơm nguội càng khô, hạt ngắn và thị trường thế giới có ít nhu cầu hay chỉ có thị trường cấp thấp như Châu Phi và Trung Quốc mua), trong khi thị trường thế giới thích mua lúa hạt dài, mềm cơm và thơm.

Marketing hiện đại: Các hoạt động sản xuất kinh doanh bắt đầu từ việc nghiên cứu phát hiện nhu cầu và làm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng, từ đó nhằm đạt mục tiêu kinh doanh.

Hay nói cách khác, marketing hiện đại là “bán sản phẩm thị trường cần chứ không phải bán sản phẩm mình có”.

Ví dụ: HTX nông nghiệp Mỹ Đông 2 (xã Mỹ Đông, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp)


HTX thành lập từ năm 2013 với 108 thành viên. Hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX gồm 3 dịch vụ chính: Dịch vụ tưới tiêu, nạo vét kênh mương, liên kết tiêu thụ lúa với công ty và đang mở thêm 2 dịch vụ đầu tư phân, thuốc bảo vệ thực vật và tín dụng nội bộ.

Thời gian qua HTX đã triển khai mô hình ứng dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất kinh doanh trên cánh đồng của hợp tác xã. Mô hình được triển khai thực hiện tại HTX với tổng diện tích 90ha. Trong đó, có 40ha sử dụng phân bón thông thường và 50ha sử dụng phân bón thông minh.

Điểm nổi bật của mô hình là thực hiện ứng dụng nhiều công nghệ cao vào sản xuất lúa như toàn bộ diện tích được thực hiện bằng phương pháp cấy bằng máy với lượng giống là 60kg/ha, phun thuốc bằng thiết bị bay không người lái, tưới ngập khô xen k điều khiển bằng cảm biến. Quản lý dịch hại tổng hợp IPM. Sử dụng sổ điện tử, truy xuất nguồn gốc nên sẽ giúp nông dân tiết kiệm được nhiều chi phí đầu tư và giảm nhân công lao động.

Trong 02 năm (2018, 2019), HTX đã liên kết tiêu thụ sản phẩm với các Công ty như: Tập đoàn Lộc Trời, Công ty Cửu Long 6 với diện tích hàng năm trên 1.000ha, bên cạnh đó cũng ký kết hợp đồng sản xuất lúa giống với Công ty giống cây trồng miền Nam với diện tích trên 900ha. HTX tham gia vào toàn bộ công đoạn của chuỗi giá trị, HTX vừa sản xuất lúa giống, vừa làm cầu nối cho các hộ gia đình trên địa bàn xã và vùng lân cận tham gia sản xuất lúa giống; sau đó HTX thu gom toàn bộ lúa giống thành phẩm để bán lại công ty.

Thông qua hoạt động của HTX đã giúp cho bà con nông dân phát triển sản xuất, tăng thu nhập, giải quyết việc làm xóa đói giảm nghèo, góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; giúp phát triển kinh tế - xã hội địa phương, đáp ứng nhu cầu an sinh xã hội của người dân.

Bảng 1.1. So sánh giữa marketing truyền thống và marketing hiện đại

Marketing truyền thống

Marketing hiện đại

- Sản xuất xong rồi tìm thị trường

- Nghiên cứu thị trường rồi mới tiến hành sản xuất

- Sản xuất là khâu quyết định

- Thị trường là yếu tố quyết định

- Bán cái đã có

- Bán thứ thị trường cần

- Marketing truyền thống không mang tính hệ thống:

- Marketing hiện đại có tính hệ thống:

+ Hoạt động marketing chỉ diễn ra trên thị trường

+  Hoạt động marketing diễn ra trước khi sản xuất cho đến cả sau khi bán hàng

+ Chỉ nắm bắt khâu lưu thông, chưa nghiên cứu được những ý đồ và chưa dự đoán được tương lai.

 

+ Nghiên cứu tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh: tiêu thụ, sản xuất, phân phối và trao đổi được nghiên cứu trong thể thống nhất.

+ Giá bán sản phẩm không ổn định theo mùa vụ (nông dân thường gọi là “hên, xui” hay “được mùa thất giá)

+ Nghiên cứu tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội, thể thao…


1.4. Marketing trong hợp tác xã

- Marketing trong HTX là tập hợp tất cả các hoạt động của HTX và thành viên liên quan đến việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, tổ chức sản xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến một sản phẩm hàng hóa nào đó của HTX nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và tối đa hóa lợi nhuận của HTX và thành viên.

Khi muốn sản xuất và tiêu thụ một số nông sản nhất định nào đó, HTX cần phải hiểu nhu cầu và mong muốn của cả khách hàng (chẳng hạn như các siêu thị mà HTX đang cung cấp hoa quả và rau cho họ) và người tiêu dùng (chẳng hạn người tiêu dùng mua hàng ở siêu thị). HTX cần phải có hiểu biết chắc chắn các yêu cầu của siêu thị đối với thức ăn chế biến sẵn (ví dụ về bao bì, việc đóng gói, thành phần thức ăn, giá cả và việc giao hàng). Ngoài ra, HTX còn cần phải hiểu (có thể nhờ sự giúp đỡ của siêu thị) nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng (như: thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi ra sao đối với các nông sản sơ chế và đã chế biến? Họ có hài lòng với tiêu chuẩn, quy cách, hình thức và hương vị của sản phẩm không?)

* Chú ý: Hoạt động marketing tại các doanh nghiệp là công việc thường xuyên và dễ làm hơn hoạt động marketing tại HTX. Do doanh nghiệp đã có điều kiện học và thực hành nhiều về marketing, doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên trẻ và có kiến thức về marketing. Trái lại, marketing là một hình thức tương đối mới với HTX do đa phần các thành viên HĐQT của HTX xuất phát từ nông dân và lớn tuổi nên HTX gặp rất nhiều khó khăn khi làm công tác marketing. Cán bộ HTX nên tham khảo, học tập, tham dự tập huấn để biết thông tin tại các HTX khác đang làm marketing thế nào và nghiên cứu tổ chức tại HTX của mình.

- Các ví dụ liên quan đến hoạt động marketing trong HTX:

+ HTX xoài Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp tổ chức sản xuất xoài cát chu đạt chất lượng VietGAP và tiêu chuẩn của Nhật Bản để bán trái xoài cát chu của HTX vào hệ thống siêu thị AEON của Nhật Bản tại Nhật.

+ HTX thanh long Tầm Vu (huyện Châu Thành, tỉnh Long An) tổ chức sơ chế, gắn nhãn, đóng thùng… sản phẩm thanh long và xuất khẩu thanh long Tầm Vu đi một số nước.

+ HTX vú sữa lò rèn Vĩnh Kim (Tiền Giang), sản xuất vú sữa theo tiêu chuẩn VietGAP để tiêu thụ vào hệ thống siêu thị Coop Mart và xuất khẩu sang châu Âu.


2.1. Khái niệm quản lý marketing

Quản lý marketing trong HTX là quá trình HTX phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra việc thi hành những biện pháp nhằm thiết lập, củng cố và duy trì những cuộc trao đổi có lợi với khách hàng đã được lựa chọn để đạt được những mục tiêu của HTX như thu lợi nhuận, tăng khối lượng hàng tiêu thụ, mở rộng thị trường…

Trong xu thế cạnh tranh hiện nay, để thực hiện tốt những nhiệm vụ trên, HTX cần:

- Phân tích kĩ, chính xác thị trường mục tiêu;

- Lựa chọn nhóm thành viên và khách hàng mục tiêu;

- Thực hiện các chiến lược marketing hỗn hợp nhằm thỏa nhu cầu của thành viên và khách hàng.

2.2. Quy trình quản lý marketing trong HTX

Quy trình quản lý marketing trong HTX bao gồm:



2.2.1 Phân tích các cơ hội thị trường:

Các HTX đều phải cố gắng tìm ra được những cơ hội thị trường mới vì không một HTX/doanh nghiệp nào có thể chỉ trông dựa vào những sản phẩm và thị trường hiện có của mình mãi được.

Phân tích các cơ hội và khả năng thị trường được tiến hành thông qua việc phân tích các yếu tố trong môi trường marketing, sự thay đổi của các yếu tố môi trường có thể tạo ra những cơ hội thuận lợi cho HTX hoặc cũng có thể gây ra những nguy cơ đối với hoạt động marketing của HTX. Điều cơ bản là phải phân tích và nhận biết được những biến đổi nào có thể trở thành cơ hội mà HTX có thể khai thác, hoặc những tác động nào của môi trường có thể tạo thành những nguy cơ và mức độ tác động của các nguy cơ này đối với HTX như thế nào?

HTX cần phải tổ chức tốt công tác nghiên cứu marketing để thường xuyên phân tích, đánh giá những đổi thay của môi trường, các xu hướng trong tiêu dùng, các thái độ của khách hàng đối với hoạt động marketing của HTX.

Có rất nhiều phương pháp để xác định các cơ hội thị trường, tùy theo đặc điểm hoạt động của mình mà các HTX có thể xem xét sử dụng để phân tích thị trường.

a/ Phương pháp “khe hở trên thị trường”

Qua kết quả phân tích thị trường, HTX có thể phát hiện các cơ hội, trong đó có những nhu cầu của khách hàng chưa được thỏa mãn để triển khai hoạt động marketing của mình.

b/ Phương pháp phân tích bằng mạng mở rộng sản phẩm/thị trường

Dựa trên sự phân tích mối quan hệ sản phẩm/thị trường để đánh giá những lợi thế và hạn chế cũng như những triển vọng và bế tắc của sản phẩm trên các thị trường mục tiêu, rồi từ kết quả phân tích đó mà định dạng các cơ hội thị trường đối với sản phẩm.

* HTX có thể chọn cơ hội thâm nhập thị trường:

 Lúc đó, mục tiêu của HTX là tăng doanh số của sản phẩm hiện có trên thị trường hiện có bằng cách thu hút thêm khách hàng của đối thủ cạnh tranh nhờ vào các biện pháp giảm giá, tăng thêm ngân sách quảng cáo và cải tiến nội dung khuyến mãi...trong khi vẫn không mất đi khách hàng đang có.

Ví dụ: HTX mở rộng quy mô dịch vụ sấy lúa sau thu hoạch để phục vụ cho thành viên; HTX bán giống cho thành viên với giá thấp hơn 10% so với nông dân bên ngoài nhằm khuyến khích thành viên mua nhiều giống của HTX và sử dụng dịch vụ của HTX nhiều hơn...

* HTX có thể chọn cơ hội mở rộng thị trường:

Lúc này, HTX thực hiện chiến lược triển khai sản phẩm hiện có của HTX sang những phân đoạn thị trường mới với mong muốn gia tăng được khối lượng bán nhờ vào việc khuyến mãi cho những khách hàng mới. Muốn vậy, người làm marketing phải phân tích các phân đoạn thị trường theo những đặc trưng cơ bản nhất, như thu nhập, tuổi tác, giới tính, hành vi mua hàng, mục đích sử dụng... để phát hiện ra những khách hàng tiềm năng và tiếp cận họ bằng các giải pháp marketing thích hợp, nhằm biến họ thành khách hàng thực sự của HTX.

Ví dụ: HTX có thể đưa sản phẩm của mình đến các phiên chợ nông sản nhỏ (phiên chợ Xanh Tử Tế) ở thành phố Hồ Chí Minh mới được mở gần đây để tham gia quảng bá, bán hàng và trao đổi thông tin, gồm: gạo, trái cây, nấm…

* HTX có thể chọn cơ hội phát triển sản phẩm:

Để chiếm giữ thị phần và gia tăng mãi lực trên thị trường hiện có, HTX cần phải cân nhắc quyết định đổi mới sản phẩm hoặc đưa ra sản phẩm mới cho khách hàng của mình. Người làm marketing có thể cống hiến cho khách hàng những sản phẩm cải tiến có chất lượng cao hơn, chủng loại phong phú hơn, hình thức đẹp hơn, bao bì hấp dẫn hơn, dịch vụ hoàn hảo hơn, hoặc đưa ra những sản phẩm mới hứa hẹn những lợi ích mới... tất cả đều nhằm vào việc câu dẫn khách hàng đến với sản phẩm của HTX.

Ví dụ: Thay vì HTX cứ sản xuất và bán lá trà mãi thì có thể chuyển sang chế biến và bán tinh dầu trà hay bột trà xanh vì hiện nay các quán giải khát hoàn toàn nhập bột trà xanh từ nước ngoài. Thay vì HTX cứ sản xuất và bán lúa mãi thì có thể chuyển sang chế biến và kinh doanh thêm các sản phẩm mới như sữa gạo hay dầu gạo.

* HTX có thể chọn cách đa dạng hóa

Chiến lược đa dạng hóa thường được áp dụng đối với những ngành kinh doanh mới trên những thị trường mới, hoàn toàn nằm ngoài những sản phẩm và thị trường hiện có của HTX. Một số người quan niệm rằng một HTX có thể thành công nếu biết lựa chọn tham gia vào những ngành công nghiệp mới có sức hấp dẫn, thay vì cố gắng để đạt hiệu suất trong một ngành công nghiệp thiếu sức mua.

Trên cơ sở phân tích và phát hiện các cơ hội thị trường, HTX cần đánh giá xem các cơ hội đó có thích hợp đối với hoạt động marketing của mình hay không? Những cơ hội nào được xem là hấp dẫn nhất đối với HTX? Để đánh giá cơ hội, HTX cần phải phân tích, lượng giá mức độ phù hợp của cơ hội đó đối với các mục tiêu chiến lược marketing và các khả năng về nguồn lực của mình.


2.2.2. Lựa chọn những thị trường mục tiêu:

Các HTX cần xác định rõ khách hàng của mình là ai? Họ có những nhu cầu và mong muốn gì cần được thỏa mãn? Chiến lược marketing cần được xây dựng khác biệt cho từng nhóm khách hàng hay là chung cho tất cả các khách hàng của HTX? Điều này chỉ có thể trả lời được trên cơ sở phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu.

Các nguồn lực của HTX luôn hữu hạn trong khi các cơ hội có thể triển khai các hoạt động lại rất phong phú, vì thế, các HTX nhất thiết phải tiến hành lựa chọn các thị trường mục tiêu để gia tăng hiệu quả các nỗ lực marketing của mình. Việc lựa chọn thị trường mục tiêu được thực hiện qua các bước sau:


+ Đo lường và dự báo nhu cầu: Việc đo lường và dự báo nhu cầu thị trường được tiến hành nhằm đảm bảo tính khả thi của các nỗ lực marketing. Để có thể xây dựng các phương án chiến lược marketing thích hợp, cần phải tiến hành dự báo một cách khá toàn diện các vấn đề liên quan đến thị trường, xu hướng tiêu dùng, tình hình cạnh tranh...

HTX cần ước lượng nhu cầu hiện tại và nhu cầu tương lai của sản phẩm, cũng như xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu đó. Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quyết định về quy mô và cách thức thâm nhập thị trường của HTX.

+ Phân đoạn thị trường (Market Segmentation): Người tiêu dùng trong thị trường luôn có đặc tính không đồng nhất và có thể phân thành nhóm theo nhiều cách khác nhau. Tiến trình phân chia khách hàng theo các nhóm để làm rõ sự khác biệt về nhu cầu, hành vi tiêu dùng được gọi là phân đoạn (hay phân khúc) thị trường. Mỗi một thị trường đều được tạo ra từ những phân đoạn thị trường.

+ Lựa chọn thị trường mục tiêu: Để xác định thị trường mục tiêu, HTX cần đánh giá quy mô của từng phân đoạn cũng như các đặc tính phù hợp của từng phân đoạn thị trường đối với khả năng marketing của HTX.

HTX có thể chọn lựa để tham gia vào một hay nhiều phân đoạn của thị trường nhất định nào đó. Thông thường, các HTX thâm nhập vào một thị trường mới bằng cách phục vụ một phân đoạn duy nhất và nếu việc làm này cho thấy thành công, họ sẽ thâm nhập thêm vào các phân đoạn khác, rồi dàn trải ra theo hàng dọc hoặc hàng ngang. Sự thâm nhập nối tiếp vào các phân đoạn thị trường không mang tính chất ngẫu nhiên, mà phải thực hiện theo một kế hoạch chủ động được hoạch định từ trước.

Việc lựa chọn một phân đoạn để thâm nhập trước phải đảm bảo tính hấp dẫn về quy mô, cơ cấu và phù hợp với khả năng marketing của HTX.

+ Định vị thị trường (Market positioning): HTX cũng cần phải tiến hành xác định cho mình một vị thế trên thị trường để xác định các lợi thế cạnh tranh về sản phẩm so với đối thủ nhằm xây dựng chiến lược marketing có khả năng tạo ra nhiều lợi thế hơn cho HTX trong việc thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn của khách hàng, cũng như góp phần thành đạt các mục tiêu chiến lược của HTX một cách hiệu quả hơn.

HTX cần xác định vị trí thương hiệu của sản phẩm so với các thương hiệu cạnh tranh, có nghĩa là tạo ra sự đánh giá, nhìn nhận và phân biệt rõ ràng của khách hàng về thương hiệu sản phẩm của HTX, những lợi thế của sản phẩm trong việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng so với các sản phẩm cạnh tranh.

Công việc này được thực hiện dựa trên sự thừa nhận rằng, mọi sản phẩm đều là một tập hợp những thuộc tính được cảm nhận và thị hiếu của khách hàng là hoàn toàn khác biệt đối với cùng một sản phẩm.

Vì vậy HTX cần thực hiện các biện pháp để đảm bảo rằng sản phẩm của HTX chiếm một vị trí đặc biệt về một hoặc các thuộc tính nào đó trong tâm trí của khách hàng ở phân đoạn thị trường mà HTX hướng đến.

2.2.3. Hoạch định chiến lược marketing

Có một số chiến lược marketing được áp dụng trong kinh doanh nông nghiệp mà HTX có thể cân nhắc để lựa chọn:

* Chiến lược khác biệt hóa sản phẩm:

Thứ nhất, chiến lược “sản phẩm tốt hơn”, có nghĩa là sản phẩm được cải tiến chất lượng, kết cấu, kiểu dáng tạo ra những lợi ích mới của sản phẩm (ví dụ rau an toàn, rau sạch), hoặc là sản phẩm được phân loại và chỉ đưa ra thị trường những sản phẩm được người mua đánh giá là chất lượng tốt.

Thứ hai, chiến lược “sản phẩm mới hơn”, có nghĩa là sản phẩm được tạo ra trên cơ sở các giải pháp kỹ thuật, qui trình công nghệ mà trước đây chưa có (ví dụ sản xuất theo qui trình VietGAP, Global GAP, BMP).

Thứ ba, chiến lược “phục vụ nhanh hơn”, có nghĩa là giảm bớt thời gian thực hiện hay giao hàng liên quan đến việc sử dụng hay mua một sản phẩm hay dịch vụ.

Thứ tư, chiến lược “giá rẻ hơn”, có nghĩa là người mua có thể mua được một sản phẩm tương tự với số tiền ít hơn.

* Chiến lược sản phẩm mới:

Sản phẩm mới là vấn đề sống còn trong sự phát triển và cạnh tranh trên thị trường. Những tổng kết trên cho thấy vấn đề sản phẩm mới là vấn đề mạo hiểm, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng đó cũng là con đường duy nhất để HTX thành công và đứng vững trên thị trường.

Dựa vào những phân tích ở các bước trên, căn cứ vào chiến lược kinh doanh đã được chấp nhận, HTX cần xây dựng và lựa chọn một chiến lược marketing thích hợp nhất để định hướng cho toàn bộ hoạt động marketing của mình.

Chiến lược marketing được xây dựng phải bao hàm các nội dung:

- Mục tiêu chiến lược marketing.

- Định dạng marketing - mix (marketing hỗn hợp 4P hay 7P).

- Các chiến lược marketing cạnh tranh của HTX.

- Ngân sách marketing và phân bổ ngân sách cho các hoạt động marketing.


2.2.4. Xây dựng chương trình marketing hỗn hợp:

Marketing hỗn hợp là sự tập hợp các phương thức marketing có thể kiểm soát được mà HTX phối hợp sử dụng để tạo nên sự đáp ứng cần thiết trong thị trường mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu marketing của mình.

Có nhiều công cụ khác nhau được sử dụng trong marketing hỗn hợp, nhưng ta có thể nhóm gộp thành 7 yếu tố gọi là 7P: sản phẩm (product), giá cả (price), phân phối (place), xúc tiến thương mại (promotion), people (con người), process (quy trình) và physical evidence (bằng chứng vật lý). Các HTX thực hiện marketing hỗn hợp bằng cách phối hợp 7 yếu tố chủ yếu đó để tác động làm thay đổi sức cầu thị trường về sản phẩm của mình theo hướng có lợi cho kinh doanh.


Việc thiết kế marketing hỗn hợp có liên quan đến hai quyết định thuộc về ngân sách.

- Thứ nhất, HTX phải quyết định tổng số chi tiêu dành cho các nỗ lực marketing (quyết định về chi phí marketing).

- Thứ hai, HTX phải xác định mức chi tổng ngân sách cho các phương tiện thuộc marketing hỗn hợp (quyết định về chi phí marketing hỗn hợp).

Thứ tự và cấu trúc của marketing hỗn hợp được triển khai tùy thuộc vào phương án chiến lược marketing đã được xác định. Marketing hỗn hợp có thể được triển khai thống nhất hoặc khác biệt theo từng đoạn thị trường mục tiêu đã lựa chọn.

Ngoài ra, những quyết định về marketing hỗn hợp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quyết định định vị thị trường của HTX. Cấu trúc của marketing hỗn hợp, sự hỗ trợ và liên kết của các thành phần trong marketing hỗn hợp phải thể hiện rõ để tránh gây khó khăn trong quá trình thực hiện.

Chẳng hạn, một chiến dịch quảng cáo mạnh mẽ phải được sự hỗ trợ của việc phân phối rộng rãi, nếu không khách hàng khó có thể đáp ứng lại chương trình quảng cáo đó.


2.2.5  Tổ chức, thực hiện chiến lược và chương trình marketing

Tổ chức thực hiện marketing là tiến trình chuyển các chiến lược và chương trình marketing thành những hoạt động marketing trên thực tế nhằm đạt các mục tiêu marketing đã đề ra một cách có hiệu quả.

Trong khi việc phân tích và hoạch định chiến lược marketing là xác định một cách rõ ràng cái gìtại sao của những hoạt động marketing, thì việc thực hiện nhằm tìm câu trả lời: ai, ở đâu, khi nào, làm thế nào để biến các ý tưởng chiến lược trở thành hiện thực. Chiến lược và việc thực hiện có quan hệ mật thiết với nhau:

+ Thứ nhất, chiến lược xác định những hoạt động thực thi nào là cần thiết.

+ Thứ hai, sự lựa chọn chiến lược tùy thuộc rất nhiều vào khả năng đảm bảo các nguồn lực của HTX để thực thi chiến lược. Thành tích nghèo nàn có thể là kết quả từ những chiến lược nghèo nàn, hoặc từ những chiến lược tốt nhưng được thực hiện một cách kém cỏi.

Tiến trình thực thi bao gồm năm hoạt động tương tác: Triển khai chương trình hành động; xây dựng cơ cấu tổ chức; thiết kế các hệ thống quyết định và khen thưởng; phát triển nguồn lực con người; và thiết lập một bầu không khí quản trị cũng như phong cách của HTX.

2.2.6. Kiểm tra và điều chỉnh hoạt động marketing:

Công việc của bộ phận marketing là lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra hoạt động marketing. Một kế hoạch marketing dù được thiết kế hoàn hảo đến đâu, trong quá trình thực hiện vẫn có thể nẩy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, vì thế bộ phận marketing phải thường xuyên theo dõi và kiểm tra các hoạt động marketing. Các hệ thống kiểm tra marketing nếu hoạt động tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động marketing nói riêng và hoạt động kinh doanh của HTX nói chung đạt được mục tiêu với hiệu quả cao.

Kiểm tra marketing có thể phân thành bốn loại: kiểm tra kế hoạch năm, kiểm tra khả năng sinh lời, kiểm tra hiệu suất và kiểm tra chiến lược.

+ Kiểm tra kế hoạch năm là việc kiểm tra quá trình thực hiện và kết quả đạt được dựa trên kế hoạch năm (thông qua việc phân tích tài chính, mức tiêu thụ, thị phần, tỉ số doanh thu trên chi phí, theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng), xác định những nguyên nhân không đạt được mục tiêu và tiến hành những điều chỉnh cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành kế hoạch đề ra.

+ Kiểm tra khả năng sinh lời bao gồm những nỗ lực xác định khả năng sinh lợi đích thực của các sản phẩm, các khu vực, các thị trường, và các kênh phân phối khác nhau qua việc phân tích báo cáo lời-lỗ (doanh thu, chi phí hàng bán, chi phí khác, lãi ròng), đánh giá các loại chi phí (tổng chi phí, trong đó: lương, tiền thuê, vật tư) theo các hoạt động marketing và phân bổ chi phí các hoạt động marketing theo các kênh phân phối, và xác định các biện pháp chấn chỉnh nhằm nâng cao khả năng sinh lời.

+ Kiểm tra hiệu suất của lực lượng bán hàng, quảng cáo, phân phối và khuyến mãi… Trên cơ sở, có thể phát hiện ra những vấn đề cần cải tiến để nâng cao hiệu suất chi phí của các hoạt động marketing này.

+ Kiểm tra chiến lược bao gồm việc khảo sát định kỳ để biết những chiến lược cơ bản của HTX khai thác như thế nào những cơ hội marketing (bằng các công cụ đánh giá hiệu quả marketing thể hiện ở quan điểm về kinh doanh, tổ chức các phối thức marketing, thông tin marketing chính xác, định hướng chiến lược và hiệu suất công tác) và kiểm tra marketing gồm sáu vấn đề chủ yếu: kiểm tra môi trường marketing, chiến lược marketing, tổ chức marketing, hệ thống marketing, hiệu quả marketing, và chức năng marketing.

3.1 Khái niệm sản phẩm nông nghiệp

Sản phẩm nông nghiệp là “Cái gì đó” được tạo ra từ hoạt động sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng (bao gồm cả sản phẩm vật chất và dịch vụ) được trao đổi trên thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người và sản xuất kinh doanh nông nghiệp.

Các HTX cn lưu ý là có nhiu tiêu chí để phân loi sản phẩm nông nghip. Trong khuôn kh tài liu này thì đặc đim sn phm nông nghip được phân loi theo mc đích s dng, bao gm: nông sn tiêu dùng cui cùng; nông sn tiêu dùng trung gian và nông sn là tư liu sn xut. C th:


Th nht, đặc đim ca nông sn tiêu dùng cui cùng: nông sn tiêu dùng cui cùng là sn phm được bán cho người mua nhm để tha mãn nhu cu li ích cá nhân h. Ví d: mua go để nu cơm ăn, mua cá tht v nu thc ăn để ăn.

Nhng sn phm này có đặc đim:

+ Đa dng v loi sn phm, đa dng v phm cp để đáp ng các nhu cu khác nhau ca người tiêu dùng;

+ Có nhiu sn phm thay thế

+ Th trường phân b rng - đâu có người là đó có nhu cu tiêu dùng

+ Mt b phn ln nông sn được tiêu dùng dưới dng tươi sng (như rau, qu, trng, sa) nên liên quan đến vn chuyn, bo qun

+ Các nông sn ch yếu là tiêu dùng cho con người, do vy vn đề cht lượng an toàn sn phm phi tuân th nhng qui định nht định

+ Sn phm nông nghip có tính thi v.

Th hai, đặc đim ca nông sn tiêu dùng trung gian: Thông thường là nhng nông sn tiêu dùng thông qua chế biến hoc qua mt s dch v ca t chc trung gian.

Loi nông sn này thường có nhng đặc đim ch yếu sau:

+ Đ đồng đều v cht lượng sn phm cao

+ Giá tương đối n định

+ Giá tr ca nông sn được tăng thêm do b sung các dch v vào trong sn phm

+ Th trường thường tp trung hơn so vi nông sn tiêu dùng cui cùng

+ Các sn phm thường có s khác bit để định v trên th trường.

Th ba, đặc đim ca nông sn là tư liu sn xut (con ging, ht ging): Mt b phn nông sn quay tr li vi quá trình sn xut vi tư cách là tư liu sn xut cc k quan trng như cây ging, con ging.

Tính cht quan trng th hin các đặc điểm sau:

+ Nông sn đòi hi nhng tiêu chun cht lượng rt cao

+ Quyết định đến kết qu ca quá trình sn xut sau

+ Thích nghi vi điu kin ca tng vùng sinh thái

+ Luôn chu áp lc ca s thay thế ca sn phm mi

+ Cơ hi thành công và ri ro ln trong kinh doanh.

3.2. Quyết định về lợi ích sản phẩm

          Li ích ca sn phm chính là s mong đợi ca khách hàng đối vi sn phm hàng hoá. Khách hàng mua lợi ích sản phẩm chứ không phải mua sản phẩm. Do đó, các HTX phải quyết định mình sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản phẩm của HTX thoả mãn nhu cầu, lợi ích của khách hàng như thế nào? Để trả lời các câu hỏi đó các HTX phải quyết định lợi ích của sản phẩm HTX có khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng như thế nào? Những lợi ích đó quy định các thuộc tính của sản phẩm.

Nhìn chung sản phẩm hàng hóa có các thuộc tính cơ bản sau:

- Hình thức và kiểu dáng sản phẩm

- Phẩm chất của hàng hóa

- Giá trị hàng hóa

- Tính đa dạng

- An toàn

- Phục vụ

- Bảo hành…


3.3. Quyết định về chủng loại sản phẩm

Chng loi (dòng) sn phm: Là mt nhóm sn phm có liên quan mt thiết vi nhau do ging nhau v chc năng hay do bán chung cùng nhng nhóm khách hàng hoc được xếp chung mt mc giá nào đó.

Danh mc sn phm: là tp hp nhng chng loi (dòng) sn phm hay tp hp các thang sn phm khác nhau ca HTX

HTX có th m rng hay thu hp danh mc sn phm ca mình đang có trên th trường tùy theo mc độ cnh tranh hay nhu cu tiêu dùng.

Danh mục sn phm ca mt HTX/doanh nghip s có chiu rng, chiu dài, chiu sâu và tính đồng nht trong tp hp

- Chiu rng: là s lượng các dòng sn phm của HTX/doanh nghiệp..

- Chiu dài: là tng s món hàng ca HTX/doanh nghiệp.

- Chiu sâu: th hin s mu ca mi sn phm trong dòng sn phm. Đếm tt c s mu khác nhau ca mi món hàng người ta có th tính ra chiu sâu trung bình ca tp hp sn phm đó.

- Tính đồng nht ca danh mục: th hin mc độ liên quan mật thiết gia các dòng sn phm v s dng, thiết b sn xut, kênh phân phi.

Bảng 1.2 Ví dụ về danh mục sản phẩm của HTX rau sạch

Rau lấy lá

Củ

Quả

Cải bó xôi

Ngò tây

Cần tây

Su hào

Cà rốt

Khoai tây

Bí ngòi

+ Bí ngòi xanh

+ Bí ngòi vàng

Rau mồng tơi

Rau dền

Cà chua

+ Cà chua bi

+ Cà chua thường

Ớt

+ Ớt chuông đỏ

+ Ớt chuông vàng

 


3.4. Quyết định về bao bì và nhãn hiệu sản phẩm

Bao bì : là vật dụng để chứa đựng, bảo quản và vận chuyển sản phẩm.

Thiết kế bao bì cho sản phẩm nông sản nhằm cung cấp thông tin về sản phẩm như cách sử dụng, thành phần số lượng và thời hạn sử dụng; tạo niềm tin và ấn tượng tốt đẹp về sản phẩm.

Bao bì không chỉ giúp cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn sản phẩm mà còn giúp cho HTX truyền thông và khuếch trương hình ảnh về sản phẩm. Bao bì được thiết kế đẹp, nổi bật có thể thu hút khách hàng, tăng doanh số bán hàng, tăng khả năng cạnh tranh, tạo thuận lợi cho việc gắn nhãn và xây dựng nhãn hiệu. Chất liệu của bao bì phải thân thiện với môi trường, có thể tái sử dụng.

Nhãn hiệu: Nhãn hiệu là tên gọi, thuật ngữ, hình vẽ, biểu tượng, ký hiệu hay sự phối hợp giữa chúng, được dùng để xác nhận hàng hóa hay dịch vụ của người bán hay một nhóm người bán và để phân biệt với hàng hóa và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.


- Các quyết định liên quan đến nhãn hiệu:

+ Có gắn nhãn hiệu cho sản phẩm của mình hay không?

+ Ai là người chủ nhãn hiệu sản phẩm?

+ Đặt tên cho nhãn hiệu như thế nào?

* Quy trình cần thực hiện khi đưa ra một nhãn hiệu sản phẩm:

(1) Thiết lập tiêu chuẩn cho nhãn hiệu: nhãn hiệu phải tương ứng với hình ảnh sản phẩm và marketing hỗn hợp (ví dụ: nêu bật uy tín hoặc tính kinh tế). Nhãn hiệu phải nêu được đặc tính và lợi ích của sản phẩm, dễ dàng nhận biết và dịch sang ngôn ngữ khác; tương thích với các sản phẩm khác mà HTX cung cấp.

(2) Nêu ra danh mục các nhãn hiệu có thể lựa chọn: một số HTX quảng cáo và marketing giúp cung cấp danh mục các nhãn hiệu để lựa chọn nếu bạn đưa ra một số mô tả cốt yếu làm cơ sở.

(3) Sàng lọc danh sách để chọn ra một nhãn hiệu tốt nhất và tiếp tục thử nghiệm, xem nhãn hiệu có thỏa mãn tiêu chuẩn ban đầu không.

(4) Thu thập thông tin phản ứng của khách hàng đối với những nhãn hiệu hiện tại.

(5) Đăng ký thương hiệu.

(6) Nhìn một cách tổng thể: Tất cả mọi công việc Marketing phải làm cần có sự nhất quán, rõ ràng và đồng nhất.

(7) Bày hàng: Chú ý vào công việc bày hàng trên giá.


* Thủ tục đăng ký nhãn hiệu sản phẩm:

Việc đăng ký nhãn hiệu sản phẩm thực hiện trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, cơ quan thực hiện là Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ, gồm các bước sau:

- Bước 1. Tiếp nhận đơn: Đơn đăng ký có thể nộp trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện tới trụ sở Cục Sở hữu trí tuệ tại Hà Nội hoặc 2 Văn phòng đại diện của Cục tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

- Bước 2. Thẩm định hình thức đơn: Kiểm tra việc tuân thủ các quy định về hình thức đối với đơn, từ đó đưa ra kết luận đơn có được coi là hợp lệ hay không (Ra quyết định chấp nhận đơn hợp lệ/từ chối chấp nhận đơn).

+ Trường hợp đơn hợp lệ, Cục Sở hữu trí tuệ ra quyết định chấp nhận đơn hợp lệ;

+ Trường hợp đơn không hợp lệ, Cục Sở hữu trí tuệ ra thông báo dự định từ chối chấp nhận đơn hợp lệ trong đó nêu rõ các lý do, thiếu sót khiến cho đơn có thể bị từ chối chấp nhận và ấn định thời hạn 2 tháng để người nộp đơn có ý kiến hoặc sửa chữa thiếu sót. Nếu người nộp đơn không sửa chữa thiếu sót/sửa chữa thiếu sót không đạt yêu cầu/không có ý kiến phản đối/ý kiến phản đối không xác đáng thì Cục Sở hữu trí tuệ ra quyết định từ chối chấp nhận đơn.

- Bước 3. Công bố đơn: Sau khi có quyết định chấp nhận đơn hợp lệ, đơn sẽ được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp.

- Bước 4. Thẩm định nội dung đơn: Đánh giá khả năng được bảo hộ của đối tượng nêu trong đơn theo các điều kiện bảo hộ, qua đó xác định phạm vi bảo hộ tương ứng.

- Bước 5. Ra quyết định cấp/từ chối cấp văn bằng bảo hộ:

+ Nếu đối tượng nêu trong đơn không đáp ứng được các yêu cầu về bảo hộ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra quyết định từ chối cấp văn bằng bảo hộ;

+ Nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng được các yêu cầu về bảo hộ, và người nộp đơn nộp phí, lệ phí đầy đủ, đúng hạn thì Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ, ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về nhãn hiệu và công bố trên Công báo Sở hữu công nghiệp.



4. Định giá sản phẩm

Định giá sản phẩm là cả một nghệ thuật trong việc bán hàng. Nếu HTX không chú trọng trong vấn đề định giá sản phẩm thì sẽ rất ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh sau này. 

Có 5 bước định giá sản phẩm, bao gồm:


Bước 1: Tính giá vốn (giá gốc) cho sản phẩm của HTX

Giá vốn (giá gốc) của sản phẩm (còn được gọi là Cost of goods sold – COGS) là tổng chi phí bao gồm phí sản xuất hoặc nhập sản phẩm (còn được gọi là giá thành của sản phẩm) và bất kỳ chi phí bổ sung nào cần thiết, chẳng hạn như phí nhân công, vận chuyển, xử lý, marketing,… để hàng được sẵn sàng bán. Hiểu một cách đơn giản hơn là giá vốn (giá gốc) của sản phẩm có thể được xác định với công thức tính như sau:

Giá gốc (giá vốn) = Giá thành sản phẩm (chi phí sản xuất/nhập sản phẩm) + Chi phí phát sinh khác nếu có (chi phí nhân công, đóng gói, vận chuyển, marketing,…)

Bước 2: Nghiên cứu thị trường, phân khúc khách hàng của HTX

Trước khi HTX muốn đặt giá bán cho bất kỳ sản phẩm bán lẻ nào, hãy xác định rõ phân khúc thị trường mà HTX đang nhắm đến.

Ví dụ: Các mặt hàng của HTX thuộc lĩnh vực nào, là hàng cao cấp, hướng đến khách hàng giàu có? Hay hàng của HTX là hàng bình dân, phù hợp với khách hàng có thu nhập trung bình – khá? Chỉ khi nắm bắt được khách hàng tiềm năng cụ thể thì HTX mới có thể dựa theo đó để đưa ra mức giá lợi thế cạnh tranh cho bản thân. Tùy vào khách hàng của HTX có những hành vi tiêu dùng ra sao, ví dụ như chỉ quan tâm về giá cả hay về chất lượng sản phẩm. Khả năng ngân sách chi trả của họ cho việc mua sắm là bao nhiêu? Cần tổng kết tất cả những dữ liệu, HTX sẽ có thể đưa ra được mức giá phù hợp, đánh trúng tâm lý khách hàng.

Bước 3: Xác định mức lợi nhuận mà HTX mong muốn

Lấy từ giá gốc của HTX rồi nhân gấp đôi lên để ra giá bán. Đây là cách làm an toàn và phổ biến nhất. Nó đảm bảo mức lợi nhuận bán hàng của HTX luôn thu về được là 100%.

Tuy nhiên, trong phân khúc bán lẻ, còn tùy vào từng ngành hàng và mô hình kinh doanh của HTX để tùy chỉnh giá bán mang về lợi nhuận bao nhiêu là phù hợp. Thường với các nhà sản xuất trực tiếp hay các thương hiệu lớn, họ sẽ nhắm đến mức lợi nhuận vào khoảng 30 – 50%. Họ có thể chấp nhận mức lợi nhuận thấp để đạt được những mục tiêu khác.

Trong khi các nhà bán lẻ trực tiếp cho người tiêu dùng thì sẽ luôn nhắm đến mức lợi nhuận cao nhất có thể, vào khoảng 55 – 100%. Vậy nên, để có được giá bán sau cùng cho sản phẩm dù là bán buôn hay bán lẻ thì HTX cần xác định mức lợi nhuận HTX mong muốn thu về được.

Bước 4: Đặt giá bán lẻ (giá niêm yết)

Sau khi xác định được lợi nhuận mong muốn thì HTX sẽ tính ra được giá bán sau cùng với công thức như sau:

Giá bán lẻ = [Giá gốc/vốn + (Giá gốc X % lợi nhuận mong muốn)]

Ví dụ: 1 kg khoai sọ giá gốc của HTX là 50.000 VND, HTX muốn thu lợi nhuận 100%, vậy thì HTX sẽ có giá bán là: [50.000 + (50.000 X 100%)] = 100.000 VND.

Ở bước này, chúng ta vừa áp dụng công thức định giá sản phẩm để ra được giá bán sau cùng theo như mức lợi nhuận mà HTX kỳ vọng. Nếu như HTX đơn thuần chỉ là bán lẻ, mua đi bán lại và giá bán sau cùng HTX đưa ra đã hợp lý, phù hợp và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thì HTX có thể bắt đầu bán hàng.

HTX cần nghiên cứu xem các đối thủ, các nhà bán lẻ khác đang bán với mức giá bao nhiêu. Từ đó, HTX có thể so sánh và xem lại giá bán sản phẩm sau cùng của mình có khả thi hay không. Nếu như mức giá HTX đưa ra quá cao so với mặt bằng chung trên thị trường hay vượt quá khả năng chi trả của phân khúc khách hàng HTX đang nhắm đến thì HTX nên xem xét, điều chỉnh lại, chấp nhận một mức lợi nhuận thấp hơn để bán được hàng.

Lưu ý:

Không nhầm lẫn giá gốc (giá vốn) với giá thành để tính ra giá bán. Đã có nhiều trường hợp, chủ kinh doanh dùng giá thành nhân lên gấp đôi, gấp 3 hoặc gấp 4 lần để ra giá bán. Họ nghĩ rằng mình đang có mức lời rất “khủng”, tuy nhiên, đó chỉ là sự ngộ nhận. Trên thực tế, doanh thu bán hàng sau khi thu về, phần lợi nhuận trong đó vẫn tiếp tục bị trừ thêm các khoản chi phí khác dẫn đến HTX không có lãi.

Bước 5: Đặt giá bán buôn

Nếu HTX là nhà sản xuất trực tiếp và cùng một lúc HTX vừa bán lẻ vừa bán buôn thì HTX sẽ làm tiếp bước này. Vấn đề khi đặt giá sỉ là làm sao để không ảnh hưởng lợi nhuận giữa giá bán buôn và bán lẻ. Đồng thời, giá bán lẻ của HTX cũng không gây ảnh hưởng về sự xung đột lợi ích với các đối tác bán lẻ khác đang lấy hàng của HTX về bán.

Khi HTX bán buôn, số lượng sản phẩm trong mỗi đơn hàng sẽ rất nhiều. Điều này cho phép HTX có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn. Lúc này, để đặt được giá sỉ, HTX nên chia theo khung số lượng sản phẩm để có nhiều mức giá sỉ. Tùy theo số lượng sản phẩm trên đơn hàng mà đối tác đặt, họ sẽ được hưởng mức giá chiết khấu khác nhau, lấy càng nhiều giá càng rẻ. Như vậy HTX cũng sẽ có được chính sách giá sỉ đa dạng cho nhiều đối tác. Dù là vốn ít hay vốn nhiều thì họ vẫn có thể lấy hàng từ HTX.

Khi vừa bán lẻ và bán buôn thì HTX có thể đẩy giá bán lẻ lên cao để tránh gây ảnh hưởng xung đột về giá cho các đối tác của HTX khi lấy hàng về bán. Giả sử HTX muốn mức lợi nhuận thu về trên giá bán lẻ là 80%. Vậy HTX có thể chia ra các mức lợi nhuận còn lại cho giá sỉ dựa trên số lượng sản phẩm đặt mua như sau:

Ví dụ: Một kg đỗ của bạn có giá gốc là 30.000 VND, lợi nhuận bạn mong muốn là 80%. Vậy giá bán lẻ là [30.000 + (30.000 X 80%)]  = 54.000 VND. Các mức giá bán buôn theo số lượng sản phẩm mà đối tác đặt mua sẽ được tính như sau:

Mua từ 3 đến 10 kg: mức lợi nhuận thu về là 70%/sản phẩm => giá bán buôn 1 kg là: [30.000 + (30.000 X 70%)] = 51.000 VND/kg

Mua từ 11 đến 30 kg giá bán: mức lợi nhuận thu về là 60%/sản phẩm => giá bán buôn 1 kg là: [30.000 + (30.000 X 60%)] = 48.000 VND/kg

Mua từ 31 – 50 kg giá bán: mức lợi nhuận thu về là 50%/sản phẩm => giá bán buôn 1 kg là: [30.000 + (30.000 X 50%)] = 45.000 VND/kg

Mua từ 1 tạ trở lên: mức lợi nhuận thu về là 40%/sản phẩm => giá bán buôn 1 kg là: [30.000 + (30.000 X 40%)] = 42.000 VND/kg

Cứ theo công thức lũy tiến này thì cứ đối tác mua càng nhiều thì giá càng giảm. Đồng thời, HTX vẫn luôn kiểm soát được lợi nhuận tối thiểu HTX thu về là bao nhiêu khi bán buôn. Không nhất thiết HTX phải rập khuôn theo khung số lượng sản phẩm và mức lợi nhuận như trên mà hoàn toàn có thể tùy biến sao cho hợp lý. Miễn là HTX luôn lấy mức lợi nhuận trên giá bán lẻ làm điểm xuất phát. Và mức giá bán lẻ đề xuất của HTX cũng đảm bảo không làm ảnh hưởng, gây xung đột về lợi ích đối với các đối tác nhập hàng của HTX. Như vậy, HTX sẽ có thêm nhiều khách hàng, đối tác hơn.

5. Phân phối sản phẩm 

Phân phối trong Marketing là một quá trình chuyển đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng, thể hiện qua nhiều phương thức và hoạt động khác nhau.

Mô hình kênh phân phối truyền thống được minh họa như sau:


- Kênh không cp, còn gi là kênh trc tiếp: kênh này nhà sn xut bán trc tiếp cho người tiêu dùng không qua trung gian.

- Kênh cp 1: có 1 trung gian là người bán l.

- Kênh cp 2: có 2 cp trung gian là nhà bán buôn và nhà bán l.

- Kênh cp 3: có 3 cp trung gian là đại lý, nhà bán buôn, nhà bán l.

* Kênh phân phi ging cây trng vt nuôi

Đây là kênh phân phi hàng hóa tư liu sinh vt nông nghip, đó là nhng tư liu sn xut đặc bit có nh hưởng quan trng và lâu dài đến kết qu hot động sn xut nông nghip. Kênh này có dng ch yếu sau:


Kênh này có đặc đim:

- Đó là kênh nghiên cu kết hp vi chuyn giao công ngh.

- Là loi kênh phân phi va mang tính độc quyn ca nhà nước, va mang tính xã hi cao được nhà nước quan tâm, h tr v công ngh và tài chính.

- Kênh mang tính trc tiếp và cung cp dch v là ch yếu, đồng thi thc hin kinh doanh.

* Kênh phân phi sn phm nông nghip tiêu dùng

Kênh phân phi sn phm nông nghip tiêu dùng được th hin sơ đồ dưới, trong h thng kênh phân phi này có nhng đim chú ý sau:

- Tùy theo trình độ chuyên môn hóa, qui mô sn xut và mc độ gn kết vi th trường mà kênh phân phi được t chc dài hay ngn. Hai kênh K1 và K2 là hai kênh ngn, ch yếu hot động th trường nông thôn. Các kênh còn li đáp ng cho người tiêu dùng thành ph và xut khu.

- Ngoài kênh K1 và K2 thì 5 kênh còn li có khâu trung gian đầu tiên là người thu gom hoc người chế biến nhưng có chc năng thu mua. Đặc trưng này là do sn phm nông nghip thường sn xut nh l phân tán, đặc bit đối vi nhng nước sn xut nông nghip chưa phát trin như Vit Nam.

- Người nông dân vi tư cách là người sn xut đầu kênh nhưng không phi là ch kênh phân phi nên h thường ch quan tâm đến các trung gian đầu tiên trc tiếp quan h vi h. H đòi hi người nhng người trung gian quan h phi là người kinh doanh mua rõ ràng, mua hàng nhiu, ly hành nhanh, đúng hn, giá c công khai, thanh toán sòng phng, có s h tr v k thut và tài chính.

Bên cạnh kênh tiêu thụ truyền thống, nhiều HTX nông nghiệp đã và đang tiếp cận, đẩy mạnh việc tiêu thụ nông sản qua các kênh bán lẻ hiện đại như: siêu thị, cửa hàng tiện ích, thương mại điện tử, hướng tới phát triển đa dạng các phương thức tiêu thụ nông sản.

Việc phát triển đa dạng các kênh tiêu thụ nông sản là một hướng đi đang được nhiều đơn vị quan tâm thực hiện, đồng thời đây cũng được cho là xu thế tất yếu trong tương lai, nhằm hạn chế việc lệ thuộc vào một hoặc một số kênh tiêu thụ, giảm rủi ro, nâng cao giá trị nông sản.



6. Truyền thông và ứng dụng công nghệ vào quảng bá sản phẩm

* Lợi ích của truyền thông và ứng dụng CNTT vào quảng bá sản phẩm:

Trong thời đại sự bùng nổ của CNTT và thay đổi cách thức mua bán sản phẩm thì hiệu quả truyền tải thông tin đến khách hàng, người tiêu dùng cao hơn hẳn thời kỳ trước đó với mức chi phí bỏ ra lại còn thấp hơn. Thông tin truyền tải đến khách hàng cũng đa dạng, phong phú và hấp dẫn hơn như: Văn bản, hình ảnh, âm thanh, sản phẩm, quy trình sản xuất…

Riêng đối với các HTX, việc có một trang web giới thiệu sản phẩm có ích gấp nhiều lần với việc quảng cáo trên các tờ báo.


Thông qua website, HTX có thể truyền tải nội dung, thông điệp với một dữ liệu khổng lồ (big data) đến tay người dùng. Và người tiêu dùng có thể truy cập thông tin sản phẩm và thực hiện giao dịch, mua bán mọi lúc mọi nơi.

Việc áp dụng công nghệ trong marketing sẽ giúp các HTX giảm số lượng nhân viên bán hàng xuống mức thấp nhất. Đồng thời tiếp cận được với thị trường rộng lớn, phát triển được ra toàn cầu từ đó tăng doanh thu HTX.

Các sản phẩm đều có thể minh họa chi tiết, nhờ đó mà khách hàng không cần phải trực tiếp đến cửa hàng để xem sản phẩm. Khách hàng thậm chí sẽ nhận được tư vấn ngay sau khi vào xem các sản phẩm, dịch vụ tại website. Đây chính là lợi thế rất lớn thay cho việc bán hàng truyền thống là tư vấn trực tiếp tại cửa hàng của các HTX.

* Cách thức truyền thông, quảng bá sản phẩm:

- Truyền thông trên báo, đài.

- Truyền thông, bán hàng trên mạng xã hội (cách này hiện nay đang phổ biến và đem lại hiệu quả cao); lập các kênh, trang wesbsite quảng bá sản phẩm, bán hàng của HTX; kết nối các sàn thương mại điện tử để bán hàng.


+ Thông qua các hội chợ, triển lãm hàng nông sản; liên kết với các đối tác trong cùng hệ thống HTX và doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm