Giáo trình

1.1.  Lịch sử hình thành HTX và HTX nông nghiệp ở Việt Nam

Bác Hồ là người đưa tư tưởng HTX vào Việt Nam từ rất sớm. Ngày 11/4/1946, Bác đã viết thư kêu gọi điền chủ, nông gia Việt Nam tham gia HTX nông nghiệp (đăng trên Báo Cứu Quốc số 229, ngày 1-5-1946). Trong thư, Bác viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy canh nông  làm gốc… nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”, “nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có HTX”; “… HTX là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc ít mà lợi ích nhiều”;

“HTX nông nghiệp là một tổ chức có lợi to cho nhà nông. Nó là cách tranh đấu kinh tế có hiệu quả nhất, để giúp vào việc xây dựng nước  nhà... HTX nông nghiệp giúp cho nhà nông đạt đến mục đích, đã ích quốc lại lợi dân”. Trải qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, khu vực kinh tế hợp tác, HTX luôn luôn có những đóng góp quan trọng vào công cuộc giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Điều này được thể hiện ở các mốc lịch sử sau:

Từ năm 1945 đến năm 1955: Phong trào kinh tế hợp tác được hình thành và phát triển ở nhiều vùng tự do và căn cứ địa cách mạng với các hình thức hợp tác giản đơn như tổ vần công, tổ đổi công. Ngày 8/3/1948, tại Chiến khu Việt Bắc, HTX thủy tinh Dân Chủ được thành lập, mở đầu cho sự ra đời và phát triển của phong trào HTX ở Việt Nam. Sự phát triển của phong trào kinh tế hợp tác, HTX giai đoạn này đã có những đóng góp tích cực trong việc đảm bảo hậu cần cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, động viên sức người, sức của cho tiền tuyến.

Thời kỳ thí điểm xây dựng HTX ở miền bắc (1955 -1957): Xây dựng được 45 HTX và trên 100.000 tổ đổi công; Số lượng hợp tác xã còn ít, trình độ thấp, song có tác động tích cực đến sản xuất và xây dựng nông thôn

Thời kỳ tổ chức xây dựng HTX nông nghiệp bậc thấp (1958 - 1960): Miền Bắc đã có 40.422 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút 2,4 triệu hộ nông dân, chiếm 85,8% tổng số hộ với 76% diện tích ruộng đất. Về cơ bản, miền Bắc đã hoàn thành xây dựng hợp tác xã bậc thấp; Có 4.346 HTX bậc cao và xuất hiện một số HTX có qui mô toàn xã. Các HTX góp phần to lớn vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

-   Thời kỳ tổ chức HTX bậc cao (1960 – 1965): Đã hình thành 17.562 hợp tác xã nông nghiệp bậc cao; Hợp tác xã nông nghiệp đã thu hút 90,3% số hộ nông dân miền bắc tham gia hợp tác xã, trong đó có 80% số hộ tham gia các HTX bậc cao; Song trong giai đoạn này phong trào hợp tác hoá nông nghiệp tiếp tục bộc lộ khuyết tật: số HTX yếu kém nhiều, hiệu quả hoạt động thấp, chưa đạt được mục tiêu hợp tác hoá đề ra, chưa xây dựng được niềm tin vững chắc đối với nông dân.

Thời kỳ tiếp tục củng cố và phát triển HTX ở miền bắc (1966 - 1975): Đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và tiến hành cuộc vận động dân chủ, phấn đấu đưa nông nghiệp miền Bắc tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; 97% số hộ nông dân vào hợp tác xã, trong đó 88% tham gia HTX bậc cao. Qui mô hợp tác xã không ngừng mở rộng. Diện tích gieo trồng của các hợp tác xã trong giai đoạn 1966 - 1975 giảm 3,6% so với giai đoạn 1961 – 1965; Các hộ thành viên có thu nhập từ hợp tác xã ngày càng thấp, lương thực tính bình quân theo đầu người giảm từ 304 kg thời kỳ 1961 - 1965 xuống 258,8 kg thời kỳ 1966 – 1975; Tệ nạn tham ô, lãng phí và hiện tượng thất thoát, hư hao tiền vốn ở các HTX tăng lên đến mức nghiêm trọng.

+ Thời kỳ mở rộng hợp tác hoá trên phạm vi cả nước (1976 - 1986):

Ở miền Bắc, hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục mở rộng qui mô, tổ chức lại theo hướng tập trung, chuyên môn hoá, cơ giới hoá; Ở miền Nam, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đã được đẩy mạnh; Cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp lâm vào tình trạng bế tắc, những khuyết điểm, yếu kém của mô hình hợp tác hoá kiểu cũ ngày càng bộc lộ rõ, tác động tiêu cực về tâm lý và xã hội trong nông thôn, người lao động không gắn bó với ruộng đất. Sản xuất nông nghiệp dẫm chân tại chỗ. Sản lượng lương thực từ năm 1976 đến năm 1981 không vượt quá con số 15 triệu tấn mỗi năm;

Để tháo gỡ khó khăn, một số địa phương đã đi tìm mô hình mới về hợp tác xã nông nghiệp theo phương thức khoán sản phẩm đến người lao động; Tháng 01 năm 1981, Ban Bí thư đã ban hành chỉ thị 100-CT-TW về cải tiến công tác khoán và mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp và đã thu được kết quả rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, mô hình hợp tác xã vẫn dựa trên sở hữu tập thể, quản lý tập trung, phân phối thống nhất theo chế độ công điểm.

Thời kỳ từ thực hiện "đổi mới" đến khi có Luật HTX (1987-1996):

Cải biến thực sự tính chất và phương thức tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta: hộ gia đình thành viên được xác định là những đơn vị kinh tế tự chủ; kinh tế hộ được quyền chủ động sản xuất, kinh doanh, hợp tác xã chỉ thực hiện những khâu công việc mà kinh tế hộ làm không hiệu quả hoặc không làm được.

Do không thích ứng với cơ chế mới và do công tác quản lý nhà nước đối với hợp tác xã không theo kịp tình hình, nên vào những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ trước, hầu hết các hợp tác xã và cơ sở sản xuất nông nghiệp bị giải thể hàng loạt hoặc chỉ tồn tại về hình thức.

Thời điểm cao nhất của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, cả nước có

17.022 hợp tác xã nông nghiệp và 36.352 cơ sở sản xuất nông nghiệp thì đến tháng 12 năm 1996, cả nước chỉ còn 13.762 hợp tác xã nông nghiệp và 1.892 tập đoàn sản xuất.

- Từ năm 1997 đến 2003

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, khu vực kinh tế hợp tác, HTX đã có những biến đổi quan trọng. Cơ chế quản lý tập trung bao cấp được xóa bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước từng bước được hình thành và điều tiết quan hệ kinh tế; phần lớn các HTX rơi vào tình trạng khó khăn, lúng túng; nhiều HTX sản xuất kinh doanh thua lỗ bị tan rã, giải thể nhưng vẫn có một bộ phận HTX kịp thời chuyển đổi thích ứng với cơ chế mới, hoạt động có hiệu quả. Luật HTX đầu tiên ra đời (tháng 3/1996) và chính thức có hiệu lực từ 01/01/1997.

Giai đoạn từ khi có Luật HTX 2003 đến khi có Luật 2012 (2003-2011): Số lượng các HTX nông nghiệp giảm mạnh, xuống chỉ còn khoảng xung quanh

6.500 HTX trong khi các HTX phi nông nghiệp tăng nhẹ. Lý do là do sau khi có Luật HTX 2003, Luật này đã khuyến khích HTX đi theo mô hình “doanh nghiệp”, vì thế khu vực phi nông nghiệp đã tận dụng thời cơ này để thành lập chuyển đổi; trong khi đó khu vực nông nghiệp mô hình này không phù hợp và với sức ép triển khai Luật HTX, các địa phương đẩy mạnh giải thể các HTX nông nghiệp yếu kém.

- Từ khi có Luật HTX năm 2012 đến nay:

Luật HTX năm 2012, đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho HTX phát triển. Các HTX từng bước chuyển đổi và đăng ký lại hoạt động phù hợp và thích ứng tốt với sự biến động của cơ chế thị trường; vai trò tự chủ của HTX được đề cao; mô hình HTX mới, phát triển sản xuất kinh doanh gắn với chuỗi giá trị được hình thành và phát triển ngày càng nhiều; góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị cơ sở và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Khu vực kinh tế HTX ngày càng phát triển đúng theo tinh thần Nghị quyết số 13 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), HTX trong nông nghiệp có bước chuyển biến khá, nhiều mô hình HTX trong nông nghiệp phát triển đa dạng, phù hợp với tiến trình tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Nội dung, phương thức hoạt động của các HTX có bước đổi mới, tổ chức thực hiện đúng những nguyên tắc của Luật HTX.

Nhiều HTX mới được thành lập, hoạt động đa dạng hóa về ngành nghề, lĩnh vực, một số liên hiệp HTX được thành lập để tạo liên kết và mở rộng quy mô sản xuất theo hướng tập trung, quy mô lớn, chuyên canh; các HTX hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của pháp luật, được củng cố, từng bước đổi mới về tổ chức hoạt động, thích ứng ngày càng tốt hơn với cơ chế thị trường; khẳng định rõ hơn vai trò, vị trí của HTX trong nền kinh tế, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị cơ sở và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng tình đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc, những tồn tại cần tập trung tháo gỡ của mô hình HTX trước đây để tiếp tục tổ chức lại hoạt động và chuyển đổi HTX hoạt động theo Luật HTX; tham mưu xây dựng Nghị định, Nghị quyết, Đề án, Chương trình, kế hoạch, chính sách, Thông tư .... nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, HTX trong nông nghiệp hoạt động hiệu quả, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp; hướng dẫn, tạo mọi điều kiện để kinh tế tập thể, HTX trong nông nghiệp hoạt động theo các quy định của pháp luật, đem lại lợi ích cho thành viên... ngày càng đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Hiện vẫn còn nhiều HTX nông nghiệp ngừng hoạt động, chưa được giải thể dứt điểm (năm 2020 là 953 HTX); năng lực nội tại của nhiều HTX còn hạn chế.

Năm 2021, hợp tác xã tiếp tục phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát, tăng kim ngạch xuất khẩu, tái cơ cấu nền kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp, nông thôn; xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, nhất là địa bàn dân tộc thiểu số và miền núi; nâng cao nhận thức của xã hội và hệ thống chính trị đối với hợp tác xã kiểu mới. Tính đến 31/12/2021, cả nước có 27.394 hợp tác xã, tăng 2.283 hợp tác xã so với cùng kỳ năm 2020; 108 liên hiệp hợp tác xã, 119.710 tổ hợp tác. Trong đó có 18.146 hợp tác xã nông nghiệp, 2.078 hợp tác xã thương mại và dịch vụ, 1.632 hợp tác xã vận tải, 2.446 hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 850 hợp tác xã xây dựng, 523 hợp tác xã môi trường, 538 hợp tác xã khác, 1.181 Quỹ tín dụng nhân dân. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã thu hút hơn 8 triệu thành viên, 2,5 triệu lao động tham gia, tăng 23,453 thành viên (đại diện hộ gia đình) so với năm 2020, trung bình 260 thành viên/HTX; thu nhập bình quân đạt 47,5 triệu đồng/năm/lao động; tổng vốn điều lệ HTX đạt gần 50 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 184 nghìn tỷ, hơn 40% HTX hoạt động có hiệu quả.